Scholar Hub/Chủ đề/#tim phổi nhân tạo/
Tim phổi nhân tạo là một thiết bị y tế được sử dụng trong trường hợp cơ thể không còn khả năng hoạt động đúng cách hoặc hoàn toàn mất chức năng của tim và phổi....
Tim phổi nhân tạo là một thiết bị y tế được sử dụng trong trường hợp cơ thể không còn khả năng hoạt động đúng cách hoặc hoàn toàn mất chức năng của tim và phổi. Đây là một công nghệ tương tự như máy tạo tim và máy tạo phổi, nhằm hỗ trợ cho chức năng hô hấp và tuần hoàn của cơ thể. Thiết bị này giúp duy trì sự sống của bệnh nhân trong thời gian chờ tìm kiếm cơ hội ghép tim và phổi từ nguồn nhân tạo hoặc từ người hiến tặng. Tim phổi nhân tạo được cấy ghép trong cơ thể và chịu trách nhiệm thay thế và hoạt động giống như tim và phổi trong suốt thời gian bệnh nhân đang chờ ghép.
Tim phổi nhân tạo, còn được gọi là ECMO (Extracorporeal Membrane Oxygenation) và VAD (Ventricular Assist Device), là một công nghệ y tế phức tạp dùng để hỗ trợ chức năng tim và phổi cho bệnh nhân có vấn đề nghiêm trọng về tim mạch.
Cơ chế hoạt động của tim phổi nhân tạo là thông qua một hệ thống bơm và màng sinh học. Thiết bị này kéo máu từ cơ thể bệnh nhân thông qua hệ thống ống nối, đẩy qua một màng sinh học để thay thế chức năng của tim và phổi. Màng sinh học này giúp cung cấp oxy cho máu và loại bỏ các chất thải.
Tiến trình cấy ghép tim phổi nhân tạo bao gồm việc phẫu thuật để đặt thiết bị trong cơ thể. Bệnh nhân sẽ được đặt trong tình trạng gây mê sâu để tiến hành phẫu thuật. Thông qua một phẫu thuật nhỏ, các ống nối sẽ được chèn vào mạch máu chính của cơ thể, thường là động mạch chủ và đúc ra đặt thiết bị tim phổi nhân tạo. Sau đó, thiết bị sẽ được kết nối với máy bơm ngoại vi để tạo ra áp lực và dòng chảy cho máu.
Khi đang sử dụng tim phổi nhân tạo, bệnh nhân phải được giám sát chặt chẽ trong bệnh viện hoặc trong các phòng chăm sóc đặc biệt. Các nhân viên y tế sẽ theo dõi chức năng tim và phổi của bệnh nhân thông qua các máy móc và theo dõi các chỉ số quan trọng như áp lực máu, lưu lượng máu, nồng độ oxy trong máu và nhịp tim.
Mục tiêu của việc sử dụng tim phổi nhân tạo là tạo ra một cơ hội để bệnh nhân có thể chờ đợi ghép tim và phổi từ nguồn nhân tạo hoặc từ người hiến tặng. Tuy nhiên, việc ghép tim và phổi vẫn là một quy trình phẫu thuật phức tạp và đòi hỏi sự phù hợp về phân tích mô và tính toán trên sử dụng tim phổi nhân tạo.
Tim phổi nhân tạo đã mang lại những cơ hội sống mới cho những bệnh nhân mắc các vấn đề nghiêm trọng về tim mạch. Tuy nhiên, điều cần lưu ý là việc sử dụng tim phổi nhân tạo có thể gây nhiều biến chứng và yêu cầu sự quản lý và giám sát chặt chẽ từ các chuyên gia y tế.
Các đặc tính bảo vệ tim của Sevoflurane trong phẫu thuật động mạch vành có liên quan đến cách thức sử dụng Dịch bởi AI Anesthesiology - Tập 101 Số 2 - Trang 299-310 - 2004
Bối cảnh
Các nghiên cứu thực nghiệm đã chỉ ra rằng sevoflurane có tác dụng bảo vệ tim qua cả khả năng tiền xử lý và tác động có lợi trong giai đoạn tái thông mạch. Trong các nghiên cứu lâm sàng, tác dụng bảo vệ tim của các chất dễ bay hơi dường như quan trọng hơn khi được sử dụng xuyên suốt quá trình phẫu thuật so với chỉ trong giai đoạn tiền xử lý. Các tác giả đã giả thuyết rằng các tác dụng bảo vệ tim của sevoflurane khi phẫu thuật động mạch vành kèm theo sử dụng máy tim phổi nhân tạo, có liên quan đến thời gian và kéo dài của việc sử dụng chất này.
Phương pháp
Bệnh nhân phẫu thuật động mạch vành chọn lọc được chỉ định ngẫu nhiên vào bốn phác đồ gây mê khác nhau (n = 50 mỗi nhóm). Ở nhóm đầu tiên, bệnh nhân nhận phác đồ tiêm tĩnh mạch dựa trên propofol (nhóm propofol). Ở nhóm thứ hai, propofol được thay bằng sevoflurane từ lúc xương ức được mở ra cho đến khi bắt đầu sử dụng máy tim phổi nhân tạo (nhóm SEVO pre). Ở nhóm thứ ba, propofol được thay bằng sevoflurane sau khi hoàn thành khâu nối mạch vành (nhóm SEVO post). Ở nhóm thứ tư, propofol được sử dụng cho đến khi mở xương ức và sau đó thay bằng sevoflurane trong phần còn lại của ca phẫu thuật (nhóm SEVO tất cả). Nồng độ troponin I sau phẫu thuật được theo dõi trong vòng 48 giờ. Chức năng tim được đánh giá trong giai đoạn quanh phẫu thuật và trong 24 giờ sau phẫu thuật.
Kết quả
Nồng độ troponin I sau phẫu thuật ở nhóm SEVO tất cả thấp hơn so với nhóm propofol. Thể tích nhát đập giảm tạm thời sau khi sử dụng máy tim phổi nhân tạo trong nhóm propofol nhưng vẫn không thay đổi trong suốt các nhóm SEVO tất cả. Ở các nhóm SEVO pre và SEVO post, thể tích nhát đập cũng giảm sau khi sử dụng máy tim phổi nhân tạo nhưng đã quay trở lại giá trị cơ bản sớm hơn so với nhóm propofol. Thời gian nằm trong phòng chăm sóc đặc biệt thấp hơn ở nhóm SEVO tất cả so với nhóm propofol.
Kết luận
Ở bệnh nhân phẫu thuật động mạch vành có sử dụng máy tim phổi nhân tạo, tác dụng bảo vệ tim của sevoflurane rõ ràng nhất khi được cung cấp xuyên suốt quá trình phẫu thuật.
#Sevoflurane #bảo vệ tim #phẫu thuật động mạch vành #máy tim phổi nhân tạo #tiền xử lý #tái thông mạch #propofol #thể tích nhát đập #troponin I #chăm sóc đặc biệt
Hiệu quả của Propofol, Desflurane và Sevoflurane đối với sự phục hồi chức năng cơ tim sau phẫu thuật động mạch vành ở bệnh nhân người lớn tuổi có nguy cơ cao Dịch bởi AI Anesthesiology - Tập 99 Số 2 - Trang 314-323 - 2003
Bối cảnh
Nghiên cứu hiện tại đã điều tra tác động của propofol, desflurane và sevoflurane đối với sự phục hồi chức năng cơ tim ở bệnh nhân phẫu thuật động mạch vành có nguy cơ cao. Bệnh nhân có nguy cơ cao được định nghĩa là những người trên 70 tuổi có bệnh lý ba mạch vành và phân suất tống máu dưới 50%, với khả năng điều chỉnh chức năng cơ tim phụ thuộc chiều dài bị suy giảm.
Phương pháp
Bệnh nhân phẫu thuật động mạch vành (n = 45) được phân ngẫu nhiên để nhận truyền kiểm soát mục tiêu của propofol hoặc gây mê qua đường hô hấp với desflurane hoặc sevoflurane. Chức năng tim được đánh giá trong và sau phẫu thuật 24 giờ bằng cách sử dụng catheter Swan-Ganz. Trong phẫu thuật, một catheter áp lực độ tin cậy cao được đặt tại tâm nhĩ và thất trái và phải. Phản ứng với tải trọng tim gia tăng, được thực hiện qua việc nâng chân, được đánh giá trước và sau tuần hoàn phổi nhân tạo (CPB). Tác động lên khả năng co bóp được đánh giá qua việc phân tích thay đổi dP/dt(max). Tác động lên khả năng thư giãn được đánh giá qua việc phân tích sự phụ thuộc tải của thư giãn cơ tim. Mức độ Troponin I trong tim sau phẫu thuật được theo dõi trong 36 giờ.
Kết quả
Sau CPB, chỉ số tim và dP/dt(max) thấp hơn đáng kể ở bệnh nhân dùng gây mê propofol. Sau CPB, việc nâng chân dẫn đến giảm dP/dt(max) lớn hơn đáng kể ở nhóm propofol, trong khi phản ứng ở nhóm desflurane và sevoflurane tương đương với phản ứng trước CPB. Sau CPB, sự phụ thuộc tải của sự sụt áp suất tâm thất trái cao hơn đáng kể ở nhóm dùng propofol so với nhóm dùng desflurane và sevoflurane. Mức độ Troponin I cao hơn đáng kể ở nhóm dùng propofol.
Kết luận
Sevoflurane và desflurane nhưng không phải là propofol đã bảo toàn chức năng tâm thất trái sau CPB ở bệnh nhân phẫu thuật động mạch vành có nguy cơ cao, với ít dấu hiệu tổn thương cơ tim sau phẫu thuật.
#Propofol #Desfluran #Sevofluran #Phẫu thuật động mạch vành #Chức năng cơ tim #Bệnh nhân người lớn tuổi có nguy cơ cao #Chỉ số tim #Troponin I #Tuần hoàn phổi nhân tạo (CPB) #Dấu hiệu tổn thương cơ tim
NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM BỆNH NHÂN PHẢN VỆ CẦN CAN THIỆP TIM PHỔI NHÂN TẠO TẠI BỆNH VIỆN BẠCH MAIMục tiêu: Nhận xét một số đặc điểm lâm sàng và kết quả điều trị bệnh nhân sau phản vệ cần can thiệp tim phổi nhân tạo tại Bệnh viện Bạch Mai. Đối tượng: 19 bệnh nhân phản vệ được can thiệp tim phổi nhân tạo tại bệnh viện Bạch Mai từ 1/2017 đến tháng 6/2020. Phương pháp nghiên cứu: mô tả cắt ngang hồi cứu. Bệnh nhân được đánh giá lâm sàng thời điểm nhập khoa và ghi nhận kết cục sống và tử vong thời điểm ra viện. Các biến định lượng được trình bày theo giá trị trung bình và độ lệch chuẩn; sử dụng các test tham số cho biến phân bố chuẩn và test phi tham số cho biến phân bố không chuẩn; sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p < 0,05. Các biến định tính được trình bày theo tỷ lệ phần trăm (%), sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p < 0,05. Kết quả: Tỷ lệ bệnh nhân nữ chiếm 100%. Điểm APACHE II trung bình là 20,9 ± 6,0 trong đó nhóm tử vong (25,2 ± 4,8) cao hơn nhóm sống (18,9 ± 5,6) có ý nghĩa thống kê với p<0,05. Nồng độ Troponin T thời điểm nhập viện có giá trị trung vị 1810 ng/ml (4,28 – 10000), nhóm tử vong cao hơn nhóm sống với p =0,019. 94,7% khởi phát với dấu hiệu tim mạch, 79% bệnh nhân phản vệ từ độ III trở lên. Kết luận: Bệnh nhân phản vệ cần can thiệp tim phổi nhân tạo chủ yếu có biểu hiện tim mạch khi khởi phát, phần lớn là phản vệ độ III và IV. Nhóm bệnh nhân tử vong có điểm APACHE II và nồng độ Troponin T thời điểm nhập viện cao hơn có ý nghĩa thông kê.
#phản vệ #tim phổi nhân tạo
ÁP DỤNG XÉT NGHIỆM ACT TRONG ĐIỀU CHỈNH LIỀU HEPARIN Ở BỆNH NHÂN TIM PHỔI NHÂN TẠOMục tiêu nghiên cứu: Nhận xét giá trị của xét nghiệm ACT tại giường trong điều chỉnh liều Heparin ở bệnh nhân được thực hiện kĩ thuật ECMO tại bệnh viện Bạch Mai. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: 67 bệnh nhân ECMO từ tháng 9 năm 2019 đến tháng 9 năm 2020 tại Khoa Hồi sức tích cực Bệnh viện Bạch Mai được điều chỉnh liều Heparin bằng xét nghiệm ACT tại giường. Kết quả nghiên cứu: Xét nghiệm ACT tương quan kém với liều Heparin và aPTT với r lần lượt là 0.14 và 0.17 p <0.05, ACT tương quan trung bình với CT INTEM với r 0.44 và p <0.05. Kết luận: Bệnh nhân ECMO được điều chỉnh liều heparin bằng xét nghiệm ACT có tỉ lệ đạt đích cao. Xét nghiệm ACT tương quan mức độ trung bình với CT INTEM.
#xét nghiệm ACT tại giường #ECMO
THAY ĐỔI SỐ LƯỢNG TIỂU CẦU Ở BỆNH NHÂN ĐƯỢC THỰC HIỆN KỸ THUẬT ECMOMục tiêu: Mô tả tỷ lệ, mức độ nặng, diễn biến số lượng tiểu cầu ở bệnh nhân thực hiện tim phổi nhân tạo tại trung tâm hồi sức tích cực (HSTC). Đối tượng: 39 bệnh nhân thực hiện tim phổi nhân tạo tại Trung tâm Hồi sức tích cực bệnh viện Bạch Mai từ tháng 9 năm 2021 đến tháng 7 năm 2022. Phương pháp: Nghiên cứu mô tả, bệnh nhân được ghi lại các thông số về SLTC, thời gian giảm tiểu cầu, tình trạng xuất huyết, thời gian ECMO, kết quả ECMO. Kết quả: Giảm tiểu cầu được quan sát ở 39/39 (100%) bệnh nhân thực hiện tim phổi nhân tạo tại trung tâm Hồi sức tích cực. Trong đó, ngày khởi phát giảm tiểu cầu trung bình sau khi thực hiện tim phổi nhân tạo là 1.7±0,8 ngày. Ở nhóm bệnh nhân ECMO thành công, số lượng tiểu cầu tăng rõ rệt sau khi dừng ECMO. Kết luận: Giảm tiểu cầu thường gặp ở bệnh nhân ECMO, bất kể loại chế độ ECMO. Giảm số lượng tiểu cầu có liên quan đến thời gian ECMO. Các cơ chế cơ bản là đa yếu tố, và sự hiểu biết và quản lý vẫn còn hạn chế. Nghiên cứu sâu hơn để thiết kế các chiến lược theo dõi, quản lý và phòng ngừa nên là một vấn đề cần được quan tâm.
#Giảm tiểu cầu #hồi sức tích cực #tim phổi nhân tạo #oxy hóa màng ngoài cơ thể #ECMO
MỘT SỐ BIẾN CHỨNG KHI SỬ DỤNG HEPARIN TRÊN BỆNH NHÂN THỰC HIỆN KỸ THUẬT TIM PHỔI NHÂN TẠOMục tiêu nghiên cứu: Nhận xét một số biến chứng liên quan đến rối loạn đông máu ở bệnh nhân sử dụng Heparin trong kỹ thuật tim phổi nhân tạo. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: 67 bệnh nhân ECMO từ tháng 9 năm 2019 đến tháng 9 năm 2020 tại Bệnh viện Bạch Mai được sử dụng chống đông là Heparin. Kết quả nghiên cứu: Tỷ lệ nữ giới chiếm chủ yếu với 61.2%. Viêm cơ tim là nhóm bệnh chiếm tỷ lệ cao nhất 38.8%. Gặp các biến chứng như sau: Xuất huyết lớn (10.7%), xuất huyết nhỏ (76,1%), huyết khối (7.4%), không ghi nhận trường hợp nào tắc màng, tỉ lệ DIC chiếm 38.04%. Vị trí chảy máu phổ biến: chân catheter (68.6%) , chân canuyl ECMO (46,3%). Kết luận: Bệnh nhân ECMO được sử dụng chống đông heparin có tỉ lệ chảy máu lớn và huyết khối thấp, không có trường hợp nào tắc màng và tỉ lệ DIC 38.04%.
#Chống đông Heparin #ECMO
KẾT QUẢ ÁP DỤNG KỸ THUẬT TIM PHỔI NHÂN TẠO ĐIỀU TRỊ BỆNH NHÂN PHẢN VỆ KHÔNG ĐÁP ỨNG THUỐC VẬN MẠCH – TRỢ TIM LIỀU CAONghiên cứu này được thực hiện nhằm đánh giá kết quả cải thiện tuần hoàn, hô hấp và chức năng tạng của kỹ thuật tim phổi nhân tạo (ECMO) ở bệnh nhân phản vệ không đáp ứng thuốc vận mạch – cường tim liều cao và hoặc ngừng tuần hoàn. Nghiên cứu mô tả loạt bệnh trên 19 bệnh nhân chẩn đoán phản vệ tại khoa Hồi sức tích cực bệnh viện Bạch Mai, phải can thiệp ECMO. Các thông tin về đặc điểm chung, tình trạng phản vệ, đặc điểm suy tuần hoàn của bệnh nhân trước khi ECMO và các chỉ số nghiên cứu đánh giá kết quả ECMO được thu thập. Kết quả cho thấy, tỷ lệ cai ECMO thành công (73,7%) và tỷ lệ bệnh nhân sống ra viện (68,4%) cao. Kỹ thuật tim phổi nhân tạo có hiệu quả cải thiện chức năng tuần hoàn, hô hấp và chức năng tạng trong hỗ trợ điều trị bệnh nhân phản vệ không đáp ứng với thuốc vận mạch – cường tim liều cao và hoặc ngừng tuần hoàn.
#tim phổi nhân tạo #ECMO #phản vệ
OXY HÓA MÁU QUA MÀNG NGOÀI CƠ THỂ HAY TIM-PHỔI NHÂN TẠO TRONG MÙA DỊCH COVID-19Năm 1953 lần đầu tiên Gibbon dùng oxygen hóa và hỗ trợ tưới máu nhân tạo thành công cho ca mổ tim hở. Đến năm 1954 Lillehei phát triển thành công kỹ thuật tuần hoàn chéo với gây mê nhẹ cho người lớn tình nguyện sử dụng máy tim phổi nhân tạo để mổ sửa chữa bệnh tim bẩm sinh. Năm 1955, tại Bệnh viện Mayo Clinic Hoa Kỳ, Kirklin và cs cải tiến máy của Gibbon dùng cho phẫu thuật vá vách liên nhĩ thành công. Năm 1965 Rashkind và cs lần đầu tiên thí nghiệm sử dụng máy cho trẻ sơ sinh đã tử vong vì suy hô hấp. Năm 1969, Dorson và cs dùng máy cho trẻ sơ sinh sống. Năm 1970, Baffes và cs công bố dùng máy tim phổi nhân tạo trong mổ tim bẩm sinh cho trẻ nhỏ còn bú và năm 1975, Bartlett và cs lần đầu tiên điều trị thành công bằng ECMO cho trẻ sơ sinh bị suy hô hấp nặng[1]; [5] [19].